Thời gian qua, nhiều người mẹ do vô tình hoặc hữu ý đã mang thai, sinh con trong lúc đang điều trị ung thư. Bác sĩ cảnh báo, đây là quyết định rất khó khăn cả về mặt chuyên môn lẫn tâm lý của người bệnh, mọi phương án cần phải được chủ động.
Gần đây ngày càng nhiều trường hợp người mẹ đang bị ung thư nhưng vẫn mang thai, sinh con thu hút nhiều sự quan tâm của cộng đồng. Điển hình nhất là trường hợp của sản phụ Nguyễn Thị L. bị ung thư giai đoạn cuối đã phải thực hiện cuộc phẫu thuật bắt con trong tư thế nửa nằm, nửa ngồi tại Bệnh viện K. Hay, trước đó là trường hợp của Thiếu úy Đậu Thị Huyền Tr. đã dũng cảm từ chối điều trị ung thư để sinh con.
Trước thực tế trên, BS Nguyễn Triệu Vũ, Trưởng hoa Ung Bướu, Bệnh viện Quận Thủ Đức cho rằng: Quyết định để có thai ở bất kỳ cặp vợ chồng nào cũng nên được chủ động tính trước. Ở nhóm bệnh nhân bị ung thư, thông thường sau khi ngưng điều trị từ 6 tháng đến 2 năm bệnh nhân có thể mang thai.
Tuy nhiên, thời gian này tùy thuộc vào cơ quan bị bệnh, giai đoạn bệnh, tuổi bệnh nhân, tình trạng kinh nguyệt sau điều trị, và phương pháp điều trị trước đó, những bệnh nhân ung thư cổ tử cung, buồng trứng… nên đợi thời gian lâu hơn những người bị ung thư vùng đầu cổ hay phổi.
Theo BS Triệu Vũ, khi đang điều trị ung thư, bệnh nhân nên chủ động ngừa thai, không chỉ phụ nữ, mà cả bệnh nhân nam cũng nên chủ động ngừa thai do nhiều thuốc hóa trị ảnh hưởng đến tinh trùng. Nếu chẳng may, có thai khi đang điều trị, bệnh nhân phải báo với bác sĩ để có phương án xử trí tốt nhất.
Những người mẹ đang trong giai đoạn điều trị ung thư, các loại thuốc điều trị có thể sẽ ảnh hưởng đến thai nhi nhưng chưa có nghiên cứu xác định được mức độ ảnh hưởng cụ thể.
Phần lớn các thuốc trị ung thư là các thuốc gây độc cho tế bào, về lý thuyết các thuốc này có thể gây hại cho thai nhi, hoặc xạ trị trực tiếp vào vùng chậu có thể gây viêm dính tử cung hoặc biến đổi buồng trứng. Các nghiên cứu ghi nhận tình trạng thai nhi và em bé sau sanh ở những người mẹ bị ung thư vẫn không khác đáng kể so với các bé được sinh từ mẹ khỏe mạnh, tỷ lệ sinh non và nhẹ cân có tăng nhẹ trong nhóm trẻ có mẹ bị ung thư nhưng điều này không ảnh hưởng đến sự phát triển của bé về sau.
Nhấn để phóng to ảnh
Các thuốc mới như điều trị nhắm trúng đích hoặc liệu pháp miễn dịch ảnh hưởng ra sao lên thai nhi vẫn chưa được nghiên cứu chi tiết, tuy nhiên các chuyên gia vẫn khuyên nên tránh dùng các thuốc này trong suốt thời gian mang thai hoặc ít nhất là trong 3 tháng đầu thai kỳ. Việc mang thai khi đang điều trị ung thư không làm nặng thêm tình trạng bệnh ung thư. Tuy nhiên, việc trì hoãn điều trị của người mẹ trong giai đoạn mang thai có thể ảnh hưởng đến tình trạng bệnh theo chiều hướng xấu.
Theo BS Triệu Vũ, ở nam giới các phương pháp điều trị ung thư đều có thể ảnh hưởng đến khả năng có con của người đàn ông bao gồm tác động trực tiếp đến tinh trùng, giảm số lượng tinh trùng và tinh dịch. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào loại ung thư, độ tuổi của bệnh nhân nhưng chưa có nghiên cứu cụ thể. Do đó, những nam giới bị ung thư muốn có con thì ít nhất 6 tháng sau ngưng điều trị mới nên có con hoặc trữ lạnh tinh trùng để có con về sau.
Trường hợp phụ nữ khi đang trong quá trình điều trị ung thư nhưng do vô tình hoặc hữu ý nên vẫn mang thai thì cần theo dõi định kỳ bằng lịch phối hợp của bác sĩ sản khoa và bác sĩ ung thư. Những tác dụng phụ do hóa trị như hạ máu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu), nhiễm trùng, suy tim… có thể ảnh hưởng tới thai nhi nên bác sĩ sản khoa và bác sĩ ung bướu sẽ phối hợp để chọn giải pháp tốt nhất cho bệnh nhân.
Nếu tình trạng sức khỏe của người mẹ khả thi thì nên bắt đầu điều trị bệnh ung thư khi bệnh nhân đã sinh xong. Việc phẫu thuật khối u cho thai phụ ung thư vẫn an toàn khi mang thai, có thể thực hiện trong 3 tháng giữa thai kỳ. Phương án hóa trị trong thai kỳ cho người bệnh cần tiến hành trên cơ sở theo dõi sát và xử lý các biến chứng do thuốc. Sau sinh, bệnh nhân vẫn có thể cho con bú, tuy nhiên phải tham khảo ý kiến của bác sĩ ung thư về các thuốc đặc trị đang sử dụng.
Nguồn : dantri.com.vn