Đôi điều về sự phát triển của ngành Hồi Sức

Ngành hồi sức được mở ra từ một thừa nhận mang tính lịch sử rằng: việc điều trị sẽ tốt hơn rất nhiều khi ta đưa vào một khu vực đặc biệt những bệnh nhân cần điều trị đang trong tình trạng cấp tính, đe dọa tính mạng hoặc chấn thương nặng.Từ rất lâu, các điều dưỡng đã nhận ra rằng những bệnh nhân bị bệnh nặng sẽ được chú ý hơn rất nhiều khi ta đặt bệnh nhân gần vị khu vực của điều đưỡng.

Florence Nightingale đã viết về những thuận lợi của việc dành riêng một khu vực của bệnh viện cho những bệnh nhân phục hồi sau phẫu thuật.

Ngành hồi sức bắt đầu tại Mỹ khi bác sĩ W.E Dandy mở một khu gồm 3 giường cho bệnh nhân sau phẫu thuật thần kinh tại bệnh viện Johns Hopkins – Baltimore

hoi-suc

Vào năm 1927, trung tâm chăm sóc trẻ sinh non đã được thành lập tại bệnh viện Sarah Morris – Chicago.

Trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ 2, khu vực chống shock đã được thành lập để điều trị và chăm sóc cho bệnh nhân bị thương trong chiến trạnh hoặc sau phẫu thuật.

Sự thiếu hụt điều dưỡng sau chiến tranh thế giới thứ 2 đã thúc đẩy việc đưa những bệnh nhân sau mổ ở phòng hồi sức được đảm bảo chăm sóc cẩn thận. Trong năm 1960, phòng hồi sức đã được thành lập ở  hầu hết các bệnh viện khi nhận thấy lợi ích phòng này đem lại trong việc chăm sóc bệnh nhân.

Trong năm 1947 – 1948, nạn dịch uốn ván tàn phá châu Âu và nước Mỹ thúc đẩy việc điều trị bệnh nhân có thể chết vì liệt hô hấp. Tại Đan Mạch, thông khí nhân tạo đã được thực hiên qua một ống được đặt trong khí quản của bệnh nhân uốn ván. Bệnh nhân bị liệt hô hấp và, hoặc đang bị suy hô hấp cấp đều cần phải điều trị chăm sóc cẩn thận.

Trong năm 1958, có khoản 25%  số bệnh viện với hơn 300 giường có Khoa Hồi Sức. Vào cuối thập kỷ 60 hầu hết các bệnh viện tại Mỹ đều có ít nhất 1 Khoa Hồi Sức.

Trong năm 1970, 29 bác sĩ đam mê trong việc điều trị những bệnh nặng và chấn thương đã gặp mặt tại Los Angeles, Califonia để thảo luận về sự thành lập của một tổ chức để bàn thảo về việc cần thiết phải chăm sóc tích cực cho bệnh nhân: đó là Cộng Đồng Hồi Sức

Vào năm 1986, Ủy Ban Chuyên Khoa Y Học đã phê chuẩn chứng nhận về hồi sức cho bốn chuyên ngành cơ bản: gây mê, nội khoa, nhi khoa, phẫu thuật.

Từ những năm 1990 đến nay, điều trị tích cực đã làm giảm rõ rệt thời gian năm nằm viện cũng như là giá thành điều trị với những bệnh như: thiếu máu não và u phổi.

Sự phát triển của những phương pháp phẫu thuật mới và phức tạp như là: cấy ghép gan, phổi, ruột non, tụy, tạo nên vai trò mới và quan trọng. Đó là ngành hồi sức khi đi kèm với ghép tạng.

Sự phát triển của việc sử dụng những phương pháp theo dõi, can thiệp không xâm lấn đã làm giảm giá thành và những biến chứng khi điều trị những bệnh nặng hoặc bệnh nhân chấn thương nặng.

Sự phát triển của việc sử dụng các phương pháp điều trị bằng thuốc cho bệnh nhân hồi sức mà đã suy chức năng của nhiều cơ quan, làm giảm thời gian chăm sóc trong ICU và cả thuận lợi hơn trong việc chăm sóc sức khỏe.

Đến năm 1997 hơn 5000 khoa Hồi Sức đã được thành lập trên toàn nước Mỹ.

Society of Critical Care Medicine – ToTheSky – Lược dịch