Rối loạn cương dương không chỉ là tình dục

BS Eric Wespes (CHU Charleroi- Hopital Erasme) trình bày vấn đề này nhân hội nghị chuyên đề về niệu khoa, được tổ chức vào cuối năm 2009.

Trong toàn dân, tỷ lệ mắc phải loạn năng cương (dysfonction érectile) biến thiên từ 19% đến 52% và tăng dần theo tuổi tác. Gần 150 triệu người trên thế giới bị bệnh lý này, trong đó 30 triệu ở Hoa Kỳ. Cuối những năm 90, phần lớn các loạn năng cương đều được quy cho các nguyên nhân tâm thần. Ngày nay, các nghiên cứu dịch tễ học đã xác nhận một mối liên hệ giữa loạn năng cương và các bệnh tim mạch. Loạn năng cương liên quan chặt chẽ với tuổi tác, với bệnh cao huyết áp, với bệnh đái đường, với chứng nghiện thuốc lá, với tăng cholestérol-huyết và với một nồng độ HDL-cholestérol trong máu hạ. Đây là tất cả những yếu tố nguy cơ của các bệnh tim mạch. Nguy cơ của chứng loạn năng cương gia tăng 1,5 lần nơi những người cao huyết áp, tăng gấp đôi khi có tăng cholestérol-huyết hay chứng nghiện thuốc lá và tăng gấp 3 nơi những bệnh nhân đái đường. Nơi các bệnh nhân với bệnh động mạch vành triệu chứng, tỷ lệ mắc bệnh loạn năng cương biến thiên giữa 44% và 65%. Trong giai đoạn tiến triển của quá trình vữa xơ động mạch (athérosclérose), loạn năng cương ảnh hưởng đến 86% các bệnh nhân động mạch vành và lên đến 87% những bệnh nhân bị bất túc động mạch ngoại biên (insuffisance artérielle périphérique), với một tương quan dương tính giữa số các động mạch vành bị bệnh và mức độ nghiêm trọng của loạn năng cương.

Sinh lý bệnh

Mối liên hệ nguyên nhân giữa loạn năng cương và các bệnh tim mạch là loạn năng nội mô (dysfonction endothéliale). Nội mô (endothelium) điều hòa nhiều chức năng sinh lý, như trương lực huyết quản (tonus vasculaire), khả năng kết dính tiểu cầu (adhésivité plaquettaire), sự đông máu, phản ứng viêm, cũng như tính thẩm thấu tế bào (perméabilité cellulaire). Sự tiết các chất trung gian tại chỗ (médiateurs locaux) bởi nội mô cho phép điều hòa thích đáng sự tưới máu mô.

Oxyde nitrique (NO) là một trong những chất trung gian huyết quản (médiateur vasculaire) quan trọng nhất có một vai trò chống vữa xơ động mạch (antiathérogène) ; nó là một chất giãn mạch mạnh và cũng có tác dụng ức chế sự dính kết tiểu cầu (agrégation plaquettaire). NO có một vai trò sinh lý quan trọng trong sự thư giãn mạch máu (vasorelaxation) của tuần hoàn dương vật và trong sự phát sinh sự cương cứng (érection). Một sự sản xuất không đầy đủ NO và/hoặc một hoạt tính bị giảm là cơ sở bệnh sinh của chứng loạn năng cương và là điểm chung giữa loạn năng cương và những dạng khác của bệnh tim mạch, nhất là với sự hiện diện của những yếu tố nguy cơ tim mạch.

Chức năng nội mô (fonction endothéliale) có thể được nghiên cứu bằng cách đo sự giãn của các động mạch cánh tay sau khi đè ép nó với một manchette của máy đo huyết áp. Sự đáp ứng động mạch đối với sự thiếu máu tạm thời gây nên một sự giãn mạch thứ phát. Vậy có thể đo sự biến thiên của đường kính của các động mạch cánh tay trước và sau khi thực hiện sự đè ép này. Những bệnh nhân bất lực (impuissant), không có yếu tố nguy cơ tim mạch cũng như các triệu chứng tim mạch, phần lớn đều có một thiếu sót trong sự giãn của những động mạch cánh tay. Cũng vậy, sự định lượng của các chất chỉ dấu (marqueurs) của thương tổn nội mô cho thấy rằng những chất chỉ dấu này tăng cao nơi những bệnh nhân bất lực mà không có những biểu hiện tim-mạch khác. Vì lẽ sự loạn năng nội mô (dysfonction endothéliale) đóng một vai trò sinh bệnh chủ yếu trong sự phát triển của chứng vữa xơ động mạch, do đó loạn năng cương (dysfonction érectile) là một biểu hiện sớm của bệnh mạch máu toàn thể thầm lặng không triệu chứng và những bệnh nhân có một loạn năng cương mạch máu có nguy cơ cao phát triển một bệnh tim mạch triệu chứng.

trieu-chung-benh-sui-mao-ga-o-nu-gioi

Một công trình nghiên cứu đã so sánh những nồng độ CRP, chức năng nội mô của động mạch cánh tay bằng siêu âm và sự hiện diện của những vôi hóa động mạch vành được phát hiện bởi CT scan, nơi 70 bệnh nhân với loạn năng cương riêng rẻ, không có tiền sử về các bệnh tim mạch và 73 người lành mạnh.

Các đặc điểm của hai nhóm y hệt nhau đối với tuổi tác và các yếu tố nguy cơ tim mạch. Các kết quả cho thấy một sự tăng cao đáng kể của nồng độ CRP, một sự giảm giãn mạch của động mạch cánh tay và sự hiện diện của những vôi hóa động mạch vành nhiều hơn nơi những bệnh nhân với loạn năng cương, đưa đến kết luận rằng chứng loạn năng cương báo trước bệnh tim mạch chưa được biểu hiện bằng những triệu chứng lâm sàng, độc lập đối với sự hiện diện của những yếu tố nguy cơ tim mạch và rằng bệnh lý tim mạch trầm trọng hơn trước sự hiện diện của loạn năng cương.

Trong một công trình nghiên cứu khác, được thực hiện trên 300 bệnh nhân có các bệnh tim mạch được xác nhận bởi chụp mạch máu (angiographie), phần lớn những bệnh nhân này có một rối loạn cương đã trở nên có triệu chứng 3 năm trước khi xuất hiện những triệu chứng lâm sàng đầu tiên của một bệnh lý tim mạch. Ngoài ra, chứng rối loạn cương càng nghiêm trọng khi số các động mạch vành bị hẹp, được chứng tỏ sau khi chụp mạch máu, nhiều hơn.

Sự biểu hiện sớm hơn của chứng rối loạn cương có thể được giải thích bởi lý thuyết “ cỡ động mạch ” (calibre arétriel) hay sự khác nhau đường kính của các động mạch của các cơ quan liên hệ. Các động mạch dương vật (artère pénienne) có đường kinh nhỏ hơn (1-2mm) các động mạch vành (3-4mm) hay động mạch cảnh (artère carotidienne) (5-7mm). Một mảng vữa xơ động mạch (plaque d’athérosclérose) cùng kích thước gây nên một mức độ tắc khác nhau tùy theo đường kính của động mạch bị thương tổn.

Như thế, sự giảm luồng máu trong một động mạch nhỏ về phương diện lâm sàng sẽ quan trọng hơn trong một động mạch có kích thước lớn hơn (sẽ còn im lặng trên phương diện lâm sàng). Nếu người ta ước tính rằng phải cần giảm khoảng 40% đường kính động mạch thì các triệu chứng mới được thể hiện, thì sự bất lực tình dục (impuissance sexuelle) sẽ được biểu hiện trước một nhồi máu cơ tim hay một tai biến mạch máu não.

Phòng và điều trị

Những người đàn ông đến phòng mạch thăm khám vì bị chứng loạn năng cương phải được thăm dò một cách hệ thống để tìm kiếm những yếu tố nguy cơ tim mạch (nhất là bệnh đái đường) và những dấu hiệu và/hay triệu chứng của những bệnh tim mạch được liên kết. Các thầy thuốc đa khoa cũng như các thầy thuốc niệu khoa đóng một vai trò quan trọng về vấn đề này. Có nên điều trị phòng ngừa để tránh cho những bệnh nhân này những tai biến mạch máu nghiêm trọng thường gây tàn phế thậm chí tử vong hay không? Những công trình nghiên cứu trên động vật đã cho thấy rằng sự sử dụng hàng ngày các inhibiteur de phosphodiestérase type 5, có thể phục hồi chức năng nội mô (fonction endothéliale). Nơi người chỉ định này không hẳn được ủng hộ nhưng những dữ kiện sơ khởi cho thấy rằng các bệnh nhân được điều trị bởi các inhibiteur de PDE5 để cái thiện chức năng cương ít bị nhồi máu cơ tim hơn so với nhóm placebo. (LE JOURNAL DU MEDECIN 15/1/2010).

Nguồn: yduocngaynay.com