Bệnh chàm thường gặp

  1. Theo tính chất của thương tổn

Chàm đỏ: da đỏ sẫm, gần giống như là xuất huyết, hay ăn vào cẳng chân, chẩn đoán được vì có một vài mụn nước nhỏ kín đáo, chảy nước vàng.

Chàm dạng bọng nước: khi thương tổn chứa dịch lớn hơn 1mm gọi là bọng nước, mụn nước sẽ to và sâu hơn khi khu trú ở vùng da dày như lòng bàn tay, chân.

Chàm có sẩn: các sẩn nền nổi cao trông như sẩn huyết thanh tập trung thành từng đám.

  1. Theo tiến triển của bệnh

Chàm cấp : nền da đỏ, phù và chảy nước nhiều.

Chàm bán cấp: da còn đỏ, ít phù nề, hết chảy nước.

Chàm mạn: bệnh chàm cấp tính dai dẳng, không khỏi thì trở thành bệnh chàm mạn tính, biểu hiện da đỏ có vảy ngứa, thỉnh thoảng lại chảy nước, nếu tồn tại lâu và do gãi nhiều thì da sẽ dày lên, nếp da sâu xuống tức là liken hóa.

Chàm bội nhiễm: do nhiễm tạp khuẩn, bên cạnh các mụn nước có các mụn mủ, loét trợt. Khi có vảy vàng giống vảy chốc gọi là chàm chốc hóa.

cham

Chàm hóa: những bệnh da do bôi thuốc không hợp gây kích thích sẽ biến sang chàm, bên cạnh những thương tổn cũ xuất hiện những mụn nước giống bệnh chàm.

 

  1. Theo căn nguyên

Chàm thể tạng

Chàm thể tạng chiếm khoảng 2-3 % dân số trẻ em và 1% dân số người lớn. Xuất độ trên dân số chung ở Hoa Kỳ có thể thay đổi từ 3-5%. Tỷ lệ bệnh tăng lên đặc biệt ở vùng ấm áp và các đợt bùng phát theo mùa, thường vào mùa xuân và mùa thu. Bệnh thường bắt đầu sớm trong năm đầu tiên của cuộc đời và có thể có nhiều đợt trong nhiều năm sau đó. Khoảng 60% bệnh nhân bị chàm thể tạng ở tuổi đầu tiên và 30% ở giữa tuổi lên 1 và lên 5.

Nguyên nhân chàm thể tạng hiện chưa được biết rõ. Có thể tùy thuộc vào tác dụng hỗ tương của nhiều yếu tố thể tạng, miễn dịch, tâm lý và thời tiết. Bản chất di truyền giữ vai trò quan trọng trong chàm thể tạng. Khoảng 70% người mắc bệnh này có tiền sử cá nhân hoặc gia đình có viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng, chàm thể tạng hoặc hen phế quản.

Chàm thể tạng hài nhi : (< 2 tuổi ) (lác sữa)

Đây là dạng thông thường nhất của bệnh chàm ở trẻ em. Bắt đầu xuất hiện sớm ở trẻ bụ bẫm, từ 3-6 tháng tuổi và thường được gọi là “lác sữa”, hiếm khi khởi phát trước 2 tháng tuổi. Biểu hiện đầu tiên lên mặt, nhất là trên má và trán chừa lại vùng quanh miệng và mắt. Thương tổn thường là mụn nước một bên má sau lan hai má và lan tràn thành hình móng ngựa, cuối cùng lan rộng ra các phần khác của cơ thể. Bệnh bắt đầu bằng hồng ban, da nhám và tiến triển đến sẩn hóa, mụn nước hóa, rỉ nước, vảy tiết và vảy mịn. Ranh giới thương tổn không rõ, đối xứng và có khuynh hướng nhiễm khuẩn thứ cấp. Trẻ bị kích thích và bứt rứt dữ dội. Bú sữa bò, ăn trứng và uống nước chanh có thể là yếu tố thúc giục và làm nặng thêm bệnh. Việc mọc răng có thể bị ảnh hưởng. Tiến triển của bệnh thường là kịch phát đến 2 tuổi có thể khỏi hẳn và cũng có thể tiến triển sang dạng chàm thể tạng dạng trẻ em.

Biến chứng : Bội nhiễm da, bệnh nội tạng (viêm thận, phổi) chết trong tình trạng trụy tim mạch do nhiễm trùng.

Chàm thể tạng trẻ em (lớn hơn 2 tuổi).

Trong suốt thời trẻ em, bệnh chàm trở nên khô hơn, da dầy hơn, các tổn thương ngứa dữ dội, các mảng sẩn và liken hóa, hồng ban, trợt da và vảy tiết, nhiều ở nếp khuỷu và nhượng chân. Nhiễm khuẩn thứ cấp là thường xuyên, giới hạn thương tổn không rõ. Tiến triển tự nhiên của bệnh thường sẽ cải thiện, thời điểm tái phát lại là tuổi lên hai, lên bảy và lúc dậy thì.

Bệnh này sẽ nặng nhất và lan rộng nhất trong suốt thời gian 3 tháng cuối của tuổi đầu tiên, khoảng 4 đến 7 tuổi hiện tượng sạch tổn thương hoàn toàn được thấy trong 75% các trường hợp, trong khi đó 25% các trường hợp còn lại có biểu hiện bệnh trong suốt thời gian dậy thì.

Các dấu hiệu phụ của bệnh chàm: Da mặt thường tái, thường có hai quầng thâm ở mắt, viêm kẽ tai tái đi tái lại, nếp đôi dưới mắt.

Chàm thể tạng người lớn

Đây là một bệnh tái phát mạn tính trên những bệnh nhân bị chàm thể tạng hoặc bị suyển từ nhỏ. Bệnh này thường lan khắp người giới hạn không rõ với các vị trí ưa thích ở mặt (trán, mí mắt), mặt trước cổ, hố khuỷu tay, nhượng chân, cổ tay, lưng bàn tay, bàn chân. Có thể xuất hiện trên và quanh núm vú nhất là phụ nữ mới lớn. Tổn thương da có xu hướng ở những mặt duỗi hơn là ở mặt gấp.

Đặc điểm lâm sàng là các mảng sẩn và liken hóa, ngứa dữ dội, tróc vảy, trợt da. Những đợt vượng bệnh thường liên quan đến những sang chấn về tinh thần. Chàm thể tạng rất hiếm ở những người lớn tuổi hơn và dường như lành ngẫu nhiên ở các bệnh nhân 40 đến 50 tuổi.

Các biến chứng thường gặp : viêm da mủ do tụ cầu và liên cầu khuẩn có thể phối hợp với to hạch vùng, sốt, và tăng bạch cầu. Tụ cầu đỏ là tác nhân gây bệnh quan trọng. Nhiễm khuẩn do siêu vi khuẩn mụn giộp có thể gây ra phát ban dạng thủy đậu củ kaposi. Đục thủy tinh thể, da vảy cá thông thường, chàm đỏ da toàn thân (viêm da tróc vảy toàn thân là một biến chứng hiếm gặp nhưng rất nghiêm trọng, được ước lượng ít hơn 1% số ca), biến chứng này có thể liên hệ với siêu vi khẩn lan rộng, các phản ứng kích thích tiếp xúc toàn thân hoặc rút lui đột ngột thuốc corticosteroids có độ mạnh cao dùng toàn thân hay tại chỗ đã kiểm soát được chàm thể tạng trầm trọng.

Xen lẫn với các triệu chứng lâm sàng có thể có biểu hiện dị ứng khác như : hen suyển, mày đay.

Chàm vi trùng

Nguyên nhân thường do sự kích thích từ kháng nguyên của nấm, vi trùng, sang chấn.

Đặc điểm chung : thương tổn không đối xứng, giới hạn rõ, ngoài mụn nước còn có sự liên quan đến các ổ nhiễm trùng kề cận như : chốc, nhọt, hăm kẽ, lẹo, chốc mép, viêm quanh móng, nốt đỉa cắn, vết mổ bẩn, các ổ nhiễm trùng da.

Hoặc các nhiễm khuẩn nội tạng như : viêm tai xương chủm, viêm xoang, viêm dạ dày, viêm đại tràng, viêm phần phụ, viêm tử cung, viêm thận… (nếu được điều trị và loại trừ ổ nhiễm khuẩn thì thấy bệnh sẽ giảm hoặc khỏi).

Chàm tiếp xúc

Chàm tiếp xúc hay viêm da tiếp xúc là hiện tượng ngứa ở thượng bì và bì, thường khởi đầu khu trú, gây ra bởi các chất gây dị ứng hoặc các chất gây kích thích, từ môi trường tiếp xúc với da.

Có 2 dạng viêm da tiếp xúc : là viêm da tiếp xúc dị ứng và viêm da tiếp xúc kích thích .

Người ta ước tính tỉ lệ bệnh viêm da tiếp xúc trong dân số chung thay đổi từ 1,5 đến 4,5%. Chàm tiếp xúc là nguyên nhân quan trọng làm mất khả năng nghề nghiệp và sinh hoạt? cá nhân.

Xuất độ lên đến 15% có thể tìm thấy trong các nhóm nguy cơ cao (như thợ làm tóc, thợ xây dựng nhà, nông dân, thợ xe máy ô tô, người làm vệ sinh…).

Xuất độ của chàm tiếp xúc đã và đang tăng lên hàng năm. Chàm tiếp xúc chiếm khoảng 20% bệnh nhân đến phòng khám da học. Gần 30% các bệnh nghề nghiệp tại Tây Đức là chàm tiếp xúc, phần lớn (70%) thuộc dạng kích thích.

Đặc điểm chung về lâm sàng

Là bệnh cấp tính, thương tổn xuất hiện ở vùng da hở, giới hạn tương ứng với vùng tiếp xúc, có tiền sử tiếp xúc, khi loại trừ nguyên nhân thì khỏi, khi tiếp xúc thì bị lại. Khởi đầu phát ban chàm là khu trú và giới hạn trong phạm vi tiếp xúc với tác nhân gây bệnh. Về sau, phát ban dị ứng có thể lan ra đến các vùng da khác, thường gặp ở phần da lộ sáng của thân thể.

Tuy vậy, bất cứ vùng nào của da khi đã tiếp xúc với chất gây nhạy cảm hoặc gây kích thích đều có thể bị tổn thương. Các nơi da dày như lòng bàn tay chân, da đầu không bị tổn thương. Viêm da tiếp xúc kích thích thường gây tổn thương ở lưng bàn tay và kẽ các ngón nhiều hơn so với mặt lòng. Các tác nhân theo đường không khí (thuốc trừ sâu, thuốc trừ vật hại (chuột bọ), formaldehyde, phấn hoa…) thường gây bệnh ở mặt, cổ và cánh tay.

Biểu hiện lâm sàng ở giai đoạn cấp tính theo trình tự như sau :

Trong giai đoạn cấp nếu nguyên nhân được loại trừ thì hồng ban biến mất trong vài ngày, mụn nước chảy nước khô đi, vảy tiết được thành lập, tróc vảy và da trở lại bình thường. Tuy nhiên, nếu sự tiếp xúc với tác nhân gây bệnh còn tiếp tục thì bệnh chuyển sang giai đoạn bán cấp và sau đó trở thành mạn tính, lúc này thương tổn khô, nhám, ngả đỏ, dạng sẩn, vảy mịn, dày lên và liken hóa.

Các di chuyển thường gặp : Dị ứng nguyên có thể từ thú vật (len, lông, da) hoặc từ thực vật (cây sơn độc, cây anh thảo, cây tỏi…). Trên toàn thế giới khoảng 10.000 cây cỏ đã bị nghi ngờ gây ra viêm da tiếp xúc dị ứng.

Viêm da tiếp xúc do tiếp xúc với các vật dùng hàng ngày : như son môi, kem bôi mặt, kem đánh răng, đồng hồ đeo tay, thuốc móng tay, kính đeo mắt, kháng sinh bôi tại chỗ, đồ nhựa, ni lông, hộp diêm, tiền bằng kim loại và chìa khóa nằm trong túi có thể gây ra viêm da tiếp xúc tại vùng da bên dưới đồ vật.

Để chẩn đoán chàm tiếp xúc thường dùng test áp với dị nguyên được pha loãng trong dung môi : áp phản ứng nguyên trên da lành, băng kín sau 15 phút, 48 giờ đọc kết quả, nếu có ngứa và nổi mụn nước là dương tính.

Đặc điểm đặc biệt của chàm thể tạng và chàm tiếp xúc là IgE tăng cao.

Chàm da mỡ (chàm tiết bã):

Là một dạng thông thường của chàm vốn có khuynh hướng xảy ra ở những người có da nhờn và các vùng có hoạt động tiết bã ở mức tối đa như : ở da đầu, sau tai, phần tai ngoài, mặt, thân mình có ở vùng xương ức và giữa hai xương bả vai, có thể ở vùng bẹn, nách và dưới vú.

Xuất độ ở bất kỳ lứa tuổi nào cũng có thể mắc bệnh (đỉnh cao ở tuổi 18 -40) và ở trẻ con. Ở trẻ dưới 1 tuổi xuất hiện dưới dạng “cứt trâu”. Bệnh thường gặp trên nam giới hơn nữa và gây bệnh khoảng 2-5% dân số. Chó, ngựa, bò cũng có thể bị. Chàm da mỡ thường xấu đi vào mùa đông ở các xứ lạnh.