1. Ung thư phế quản là gì?
Ung thư phế quản là bệnh của tế bào biểu mô phế quản. Bình thường các tế bào phế quản được sinh ra, phát triển thực hiện các chức năng của chúng sau đó sẽ chết theo một chương trình định sẵn được gọi là quá trình chết tế bào theo chương trình.
Ung thư phế quản xảy ra khi các tế bào biểu mô phế quản tăng trưởng không kiểm soát được nữa, tế bào tăng lên thật nhanh chóng về số lượng, tuy nhiên các tế bào được sinh ra không đảm bảo chức năng bình thường như các tế bào biểu mô phế quản thông thường khác, ngược lại xâm lấn vào các cơ quan tổ chức lân cận và sau đó là xâm lấn đi xa làm rối loạn chức năng của các cơ quan tổ chức mà tế bào ung thư này xâm lấn vào.
Tổn thương tế bào biểu mô phế quản chính là các tổn thương vật chất di truyền nằm trong gen trong nhân tế bào. Vật chất di truyền trong gen chính là các phân tử DNA. Các phân tử này bị đột biết dưới tác động gây đột biến từ môi trường bên ngoài ví dụ chất độc trong khói thuốc lá. Các DNA bị đột biến sẽ chỉ huy tế bào tăng sinh bất thường và sinh ra ung thư.
Các tế bào ung thư phế quản ban đầu chỉ khu trú tại chỗ ngay nơi tổn thương tại phế quản làm cho vùng phế quản nơi bị ung thư không còn đảm bảo được chức năng vận chuyển không khí nữa. Sau đó khi các tế bào ung thư tiếp tục sinh sôi nảy nở sẽ tạo thành khối u chèn ép và gây rối loạn chức năng vùng phế quản lân cận. Tiếp sau đó nữa tế bào ung thư đi theo mạch máu và mạc bạch huyết đến các nơi xa hơn nữa trong cơ thề, lúc này người ta nói ung thư di căn. Tế bào ung thư phế quản có thể di căn vào não, xương, gan, thượng thận, da v.v. và đến lượt các cơ quan này bị rối loạn chức năng. Hậu quả là cơ thể sẽ suy kiệt, giảm chức năng và cuối cùng tử vong.
2. Triệu chứng lâm sàng ung thư phế quản:
Triệu chứng của ung thư phế quản rất đa dạng và tùy theo giai đoạn tiến triển của bệnh mà số lượng các triệu chứng có thể nhiều hay ít.
Ung thư phế quản giai đoạn đầu tiên thường là không có triệu chứng gì cả: Người ta nhận thấy có đến 5 – 15% bệnh nhân ung thư phổi lúc được phát hiện là không hề có triệu chứng lâm sàng gì cả. Những người này được phát hiện là hoàn toàn tình cờ khi đi chụp phim X quang phổi kiểm tra sức khỏe định kỳ hàng năm.
Ung thư phế quản giai đoạn tiến triển kế tiếp sẽ có triệu chứng. Những triệu chứng trong giai đoạn này có thể kể ra như sau:
· Ho: là triệu chứng khởi đầu thường gặp nhất. Đa số bệnh nhân đều bỏ qua triệu chứng này, họ cho rằng ho là do hút thuốc lá (lưu ý rằng đa số bệnh nhân ung thư phế quản có hút thuốc lá). Ung thư phế quản cũng có thể xuất hiện ngay trên bệnh nhân bị COPD và bệnh nhân COPD sẽ không nghĩ rằng ho là do ung thư phế quản mà cứ cho rằng ho là do COPD. Như vậy những điểm của triệu chứng ho trên người hút thuốc lá, người bị COPD gợi ý họ có thể bị ung thư phổi sẽ là sự thay đổi tính chất ho: ho tự nhiên nhiều hơn bình thường, thời gian một cơn ho có thể dài hơn, số lượng đàm có thể nhiều hơn, đàm có mủ hay tái đi tái lại hơn so với trước đây, có thể ho ra đàm vướng máu.
· Ho ra máu: là một triệu chứng báo động quan trọng. Khác với ho đơn thuần, triệu chứng ho ra máu ít khi bị bỏ qua và bệnh nhân thường đến gặp ngay bác sỹ khi thấy có ho ra máu. Triệu chứng ho ra máu khá đặc hiệu cho ung thư phế quản vì thế khi bệnh nhân > 40 tuổi, có hút thuốc lá, lại ho ra máu thì nên đến khám bác sỹ để được chỉ định nội soi phế quản chẩn đoán.
· Khó thở: là triệu chứng xuất hiện muộn hơn trong tiến triển của ung thư phế quản, tuy nhiên do khó thở xuất hiện từ từ lại trên bệnh nhân lớn tuổi nên cũng thường bị bỏ qua vì cho rằng khó thở này do tuổi già, do COPD. Khó thở xuất hiện khi khối u đã lớn làm tắc nghẽn phế quản, làm xẹp một vùng phổi, hoặc do khối u xâm lấn ra màng phổi làm tràn dịch màng phổi.
· Đau ngực: cũng là triệu chứng gợi ý ung thư phế quản, đặc điểm đau ngực trong ung thư phế quản ban đầu là đau ngực dai dẳng, mơ hồ không rõ vị trí, sau đó là đau ngực nhiều gây khó chịu, có thể bị chẩn đoán nhầm thành đau thần kinh liên sườn, đau cơ .v.v.
Ung thư phế quản giai đoạn muộn, có di căn thường có các triệu chứng sau:
· Ung thư phế quản di căn trung thất: là khi các tế bào ung thư phế quản xâm lấn vào các cơ quan nằm trong trung thất (các cơ quan trong lồng ngực nằm giữa hai lá phổi). Nếu tĩnh mạch chủ trên bị xâm lấn làm máu không chạy về tim được, bệnh nhân có thể có chóng mặt, ù tai, nhức đầu, tím tái ở mặt và phần trên ngực. Nếu động mạch chủ bị xâm lấn có thể gây vỡ động mạch chủ gây tràn máu màng phổi và đột tử. Nếu thần kinh quặt ngược thanh quản trái bị xâm lấn, bệnh nhân có thể bị liệt dây thanh âm gây khàn tiếng, giọng đôi. Nếu thần kinh hoành bị tổn thương, bệnh nhân có thể có triệu chứng nấc cụt, khó thở do liệt cơ hoành. Nếu thực quản bị tổn thương, bệnh nhân có thể có nuốt khó, sặc, nuốt nghẹn.
· Ung thư phế quản di căn màng phổi: là triệu chứng thường gặp, thường là tràn dịch màng phổi lượng nhiều, lượng dịch tái lập nhanh sau khi chọc dò.
· Ung thư phế quản di căn thành ngực: tạo thành khối u trên thành ngực, gây đau nhức dữ dội.
· Ung thư phế quản di căn hạch: các hạch trên đòn, hạch nách có thể sưng to, cứng, không đau.
· Ung thư phế quản di căn cơ quan xa: bao gồm các cơ quan như: tuyến thượng thận, não, gan, xương, da.
3. Triệu chứng cận lâm sàng ung thư phế quản:
A. X quang lồng ngực:
Một số trường hợp ung thư phế quản được phát hiện tình cờ khi chụp X quang kiểm tra sức khoẻ. Vì thế trên mọi người lớn hơn 40 tuổi có hút thuốc lá, nên khám sức khỏe định kỳ có chụp X quang phổi cho dù không có triệu chứng gì. Hoặc khi nào có triệu chứng hô hấp bất kỳ cũng nên khám để được kiểm tra.
Các hình ảnh của ung thư phế quản có thể thấy được trên phim X quang phổi bao gồm: nốt mờ, khối mờ trong nhu mô phổi, có thể thấy hình ảnh trung thất nở rộng, hình bóng mờ ở rốn phổi hoặc hình ảnh tổn thương tràn dịch màng phổi. Tuy nhiên các hình ảnh trên X quang phổi chỉ gợi ý chứ không giúp chẩn đoán xác định.
B. CT scan lồng ngực:
Khi nghi ngờ ung thư phế quản nên chụp CT scan lồng ngực có cản quang vì đây là xét nghiệm hình ảnh học rất đáng tin cậy trong chẩn đoán ung thư phế quản.
CT scan giúp định vị khối u, xác định những đặc tính hình ảnh học u, đánh giá thương tổn hạch trung thất, di căn phổi gan và thượng thận. Cũng như X quang phổi qui ước, CT scan lồng ngực giúp định hướng nhưng không phân biệt chắc chắn lành ác.
C. Nội soi phế quản kết hợp sinh thiết:
Nội soi phế quản cho phép tiếp cận được khối u phế quản đặc biệt là khối u phế quản ở vị trí trung tâm , cho phép sinh thiết khối u để thực hiện xét nghiệm giải phẫu bệnh = tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán ung thư phế quản.
D. Các xét nghiệm cận lâm sàng khác:
Ngoài các xét nghiệm cận lâm sàng trên, tùy theo tình huống bác sỹ sẽ chọn lựa các xét nghiệm khác để chẩn đoán cũng như để hướng dẫn điều trị ung thư phế quản cho bệnh nhân.